Chào mừng đến vớiTin tức FTI

Tin tức FTI

Sẽ triển khai đầu tư đường sắt Thủ Thiêm

thời gian:2025-10-21 06:07:15 Nguồn:Đại lý ngoại hốiđọc(143)

– Thị trường tuần mới khởi động với các tin tức: TP.HCM đề xuất đầu tư đường sắt Thủ Thiêm - Long Thành,ẽtriểnkhaiđầutưđườngsắtThủThiêĐăng nhập trang web chính thức của Forex Club sẽ kết nối TP. Thủ Đức với Cảng hàng không quốc tế Long Thành. Lạm phát lõi cao, NHNN sẽ thận trọng cân nhắc chính sách tiền tệ trong nửa cuối năm 2023? Việt Nam tăng cường xuất khẩu gạo vào thị trường EU… Dưới đây là nội dung chính 3 tin tức đáng chú ý trong phiên giao dịch hôm nay thứ Hai ngày 10/7.

1. TP.HCM đề xuất đầu tư đường sắt Thủ Thiêm - Long Thành

Tuyến đường sắt Thủ Thiêm – Long Thành sẽ kết nối TP. Thủ Đức với Cảng hàng không quốc tế Long Thành. Lãnh đạo ngành giao thông vận tải TP.HCM kiến nghị cần sớm triển khai dự án bằng nguồn vốn ngân sách như đầu tư cho Vành đai 3.

Sẽ triển khai đầu tư đường sắt Thủ Thiêm

3 tuyến đường sắt quan trọng đi qua khu vực Đông Nam Bộ phấn đấu thông qua chủ trương đầu tư năm 2025, triển khai giai đoạn 2025 - 2030 gồm: Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam, đường sắt Thủ Thiêm – Long Thành, đường sắt TP.HCM – Cần Thơ.

Hiện nay sân bay Long Thành dự kiến sẽ được khai thác vào năm 2025, trong khi đó cửa ngõ sân bay Tân Sơn Nhất đang quá tải. Do đó, Lãnh đạo Sở Giao thông vận tải TP.HCM kỳ vọng các tỉnh vùng Đông Nam Bộ cần thống nhất tiếp tục ưu tiên nguồn lực để đẩy nhanh tuyến đường sắt Thủ Thiêm – Long Thành. Theo đó, việc kêu gọi đầu tư bằng PPP vào đường sắt là rất khó, vì vậy giống như dự án Vành đai 3, có thể ưu tiên sử dụng vốn đầu tư công. Theo nghiên cứu, tuyến đường sắt Thủ Thiêm – Long Thành dài 37,35 km, với 20 ga, trong đó đoạn qua TP. HCM 11,8 km, qua Đồng Nai 25,55 km. Điểm đầu là ga Thủ Thiêm (TP.Thủ Đức, TP.HCM), điểm cuối là ga Cảng hàng không quốc tế Long Thành (tỉnh Đồng Nai).

Tổng mức đầu tư của dự án dự kiến khoảng 40.500 tỷ đồng. Tuyến đường sắt này chủ yếu phục vụ vận tải hành khách giữa trung tâm TP.HCM với Cảng hàng không quốc tế Long Thành, tốc độ tối đa 80 km/giờ, vận tốc khai thác 60 km/giờ.

2. Lạm phát lõi cao, NHNN sẽ thận trọng cân nhắc chính sách tiền tệ trong nửa cuối năm 2023?

Trong 6 tháng đầu năm, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (đóng góp CPI 1,24 điểm phần trăm) và nhóm lương thực, thực phẩm (đóng góp CPI 1,34 điểm phần trăm) chiếm tỷ trọng lớn nhất trong CPI.

Các yếu tố hỗ trợ lạm phát chính trong nửa đầu năm là dầu (- 24,87%) giúp chỉ số giá giao thông giảm -8,34% (đóng góp giảm CPI 0,81 điểm phần trăm).

Tốc độ hạ nhiệt của lạm phát cơ bản chậm hơn nhiều so với lạm phát chung, khi ghi nhận tăng 4,3% so với cùng kỳ trong tháng 6 và 4,7% đối với lạm phát bình quân.

Tuy vậy, trong nhận định tổng thể SSI vẫn đưa ra dự báo nền kinh tế đang thiếu hụt động lực tăng trưởng. Mặc dù tăng trưởng các nhóm ngành trong quý II tích cực hơn so với quý I, so sánh mức tăng trưởng GDP theo quý cho thấy xu hướng hiện tại đang ở mức thấp hơn mức tăng trưởng trung bình giai đoạn trước COVID. Tăng trưởng GDP 6 tháng tăng 3,72% - mức thấp nhất kể từ 2021 nếu loại trừ giai đoạn COVID-19 2020. Về phía cầu, tăng trưởng 6 tháng chủ yếu đến từ xuất khẩu ròng khi chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp tới 63,45% trong khi xét về tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm so với cùng kỳ. Tiêu dùng cuối cùng và tích lũy tài sản chỉ ghi nhận tăng 2,68% và 1,15%.

SSI dự báo tăng trưởng GDP cho cả năm ở mức 4,5% - 5%. Theo SSI, các nỗ lực từ phía NHNN và Chính phủ có thể sẽ phải gặp các trở ngại đến từ việc cần phải duy trì cân bằng giữa tăng trưởng và sự ổn định vĩ mô (và hệ thống ngân hàng nói riêng). Yếu tố cản trở khác đến từ việc các điều kiện tài chính bên ngoài bị thắt chặt. Điểm tích cực có thể đến từ sự hồi phục của ngành du lịch (khi chính sách visa thuận lợi hơn) và sự phục hồi nhanh hơn từ các đối tác thương mại chính.

3. Việt Nam tăng cường xuất khẩu gạo vào thị trường EU

Bên cạnh các thị trường truyền thống ở châu Á, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang một số thị trường khó tính đòi hỏi tiêu chuẩn cao như EU cũng được đẩy mạnh trong thời gian qua.

Với kết quả này, các doanh nghiệp đã xuất khẩu hơn một nửa trong tổng số hạn ngạch 80.000 tấn gạo/năm mà EU cam kết dành cho Việt Nam theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).

Nếu tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng như hiện nay, một số chuyên gia cho rằng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU trong năm 2023 có thể chạm ngưỡng 100.000 tấn, con số cao nhất từ trước đến nay và vượt xa hạn ngạch của Hiệp định EVFTA.

Năm ngoái, các doanh nghiệp cũng đã xuất khẩu tới 94.510 tấn gạo sang thị trường EU, tăng 48% so với năm 2021 và vượt hơn 14.000 tấn so với hạn ngạch.

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Lượng gạo xuất sang EU tuy không lớn (chỉ chiếm chưa đến 2% trong tổng xuất khẩu gạo của cả nước), nhưng đây lại là thị trường xuất khẩu nhiều tiềm năng đối với các loại gạo thơm, gạo hữu cơ có giá trị gia tăng cao của Việt Nam.

Hiện gạo thơm (Jasmine, KDM, ST 24, ST 25…) chiếm hơn 39% tổng khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vào EU, tiếp theo là gạo trắng chiếm 26,8%; gạo Nhật chiếm 18,2%; còn là gạo lứt, gạo vi chất và gạo nếp.

Do đó, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong 5 tháng đầu năm nay cũng khá cao so với các thị trường khác, đạt bình quân 667 USD/tấn, cao hơn 26% so với mức giá xuất khẩu chung là 529 USD/tấn của cả nước.

Vào tháng 2 năm nay, lần đầu tiên lô hàng 15 tấn gạo hữu cơ của nông dân tỉnh Quảng Trị được xuất khẩu sang thị trường châu Âu với giá lên đến 1.500 - 1.800 USD/tấn, gấp 2 – 3 lần giá gạo thường.

Về thị trường, Đức hiện đang là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam tại EU với khối lượng đạt 9.831 tấn, tăng 31,5% so với cùng kỳ và chiếm 21% thị phần. Tiếp theo là Hà Lan với 6.324 tấn, tăng 37,5% và chiếm 13,5% thị phần.

Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang nhiều thị trường khác trong khối EU tăng trưởng từ ba đến bốn con số như Ba Lan tăng 109,2%, Hugary tăng 571,2%, Bỉ tăng 165%, Tây Ban Nha tăng 307,7%, Bồ Đào Nha tăng 13 lần…

Trong số các thị trường chính, mức giảm đáng kể nhất là Italy khi lượng gạo xuất khẩu sang thị trường này giảm đến gần 70% so với cùng kỳ, xuống còn 5.638 tấn.

Nhìn chung gạo Việt Nam hiện đã có mặt tại hầu hết nước thành viên EU nhờ chất lượng ngày càng cải thiện, đáp ứng được yêu cầu từ cả các thị trường khó tính, đồng thời cho thấy tiềm năng mở rộng thị trường, gia tăng thị phần gạo chất lượng cao của Việt Nam.

Tuyên bố: Nội dung bài viết này không thể hiện quan điểm của trang web FTI, nội dung chỉ mang tính chất tham khảo không mang tính chất tư vấn đầu tư. Đầu tư là rủi ro, hãy lựa chọn cẩn thận! Nếu có bất kỳ vấn đề nào liên quan đến nội dung, bản quyền,… vui lòng liên hệ với chúng tôi và chúng tôi sẽ điều chỉnh trong thời gian sớm nhất!

Chia sẻ:

Mẹo hay:Nội dung và hình ảnh trên được thu thập từ Internet chỉ để tham khảo. Hy vọng chúng hữu ích cho bạn! Nếu có bất kỳ vi phạm nào, vui lòng liên hệ với chúng tôi để xóa!

Liên kết thân thiện: